Cảnh báo!

3.000 phôi sổ đỏ “mất tích : http://www.baomoi.com/3-000-phoi-so-do-mat-tich-Ky-luat-Pho-Cuc-truong-Cuc-Dang-ky-dat-dai/58/17398106.epi

Ít nhất có 6 loại thực phẩm mà chúng ta không nên sử dụng nhiều

Thực phẩm là nguồn dinh dưỡng thiết yếu cho sức khỏe. Tuy nhiên không phải thực phẩm nào cũng tốt, ít nhất có 6 loại thực phẩm mà chúng ta không nên ăn nhiều, đặc biệt là phụ nữ.

Thứ nhất, cà phê

Viện nghiên cứu Khoa học sức khỏe môi trường Hoa Kỳ thực hiện nghiên cứu trên 104 phụ nữ mang thai và đưa đến kết luận rằng: Cà phê có tác động trực tiếp đến khả năng sinh sản của phụ nữ. Trong những phụ nữ này, ở những người uống hơn 1 tách cà phê mỗi ngày thì khả năng mang thai giảm đi một nửa so với những người phụ nữ không uống nước giải khát này. Vì vậy, họ cho rằng nếu phụ nữ dự định có thai thì bạn nên uống cà phê ít hơn.

Thứ hai, cà rốt

Cà rốt rất giàu carotene, vitamin và chất dinh dưỡng khác có lợi cho thành phần cấu tạo cơ thể con người. Roth Gisborne, bác sĩ phụ khoa của trường Y New Jersey thực hiện nghiên cứu cho thấy phụ nữ ăn quá nhiều cà rốt, dung nạp vào cơ thể một lượng lớn carotenoid có thể gây vô kinh và ức chế sự rụng trứng, giảm chức năng buồng trứng bình thường. Vì vậy, phụ nữ muốn mang thai không nên ăn cà rốt.

Thứ ba, rượu

Nghiên cứu cho thấy rượu là thành phần chính của ethanol, ethanol có thể làm tăng mức độ catecholamine của cơ thể, co thắt mạch máu và teo tinh hoàn. Chức năng sinh tinh thay đổi, việc tiết ra testosterone và sự thiếu hụt nội tiết tố nam khác khiến thanh âm nam giới mỏng hơn và hiệu suất làm nở ngực nữ tính khác. Nam giới dễ bị vô sinh ngay cả khi đã từng sinh, thế hệ tiếp theo cũng dễ dị tật. Phụ nữ có thể dẫn đến vô kinh, kinh nguyệt không đều, tạo ra sự thay đổi trứng hoặc ngừng sự rụng trứng.

Hạt hướng dương với một số thành phần protein ức chế tinh hoàn, có thể gây teo tinh hoàn, ảnh hưởng đến chức năng sinh sản. (ảnh minh họa)

Thứ tư, hạt hướng dương

Hạt hướng dương với một số thành phần protein ức chế tinh hoàn, có thể gây teo tinh hoàn, ảnh hưởng đến chức năng sinh sản bình thường, đó là lý do những người trẻ trong độ tuổi sinh đẻ không nên ăn loại hạt này.

Thứ năm, tỏi

Mặc dù tỏi có khá nhiều công dụng với sức khỏe nhưng cũng phải chú ý vì tỏi tươi có khả năng giết tinh trùng. Những người trong độ tuổi sinh đẻ nếu ăn quá nhiều sẽ có tác động tiêu cực đến khả năng sinh sản.

Thứ sáu, thịt bò và thịt cừu nướng

Thịt bò và thịt cừu nướng có nhiều ở Nội Mông Cổ, Tân Cương. Nó đã được tìm thấy rằng những phụ nữ ăn nhiều thịt cừu nướng có thể sinh ra một đứa trẻ chậm phát triển, tâm thần, liệt hoặc biến dạng. Sau khi có cuộc điều tra và nghiên cứu của y tế hiện đại đã phát hiện ra rằng những phụ nữ này và con cái của họ sinh ra bị biến dạng nhiễm trùng Toxoplasma gondii.

Tự dưng thấy iu quá!

483809_504747209573742_338494175_n

Hình ảnh

Ấp Bắc

Trên cơ sở quán triệt và nghiêm túc thực hiện Luật Báo chí, các nghị quyết, nghị định, chỉ thị của Trung ương có liên quan đến hoạt động báo chí và các nghị quyết, văn bản chỉ đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh, trong thời gian qua Báo Ấp Bắc đã tổ chức thực hiện đạt được những kết quả đáng kể. Báo Ấp Bắc đã thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo, định hướng thông tin, tuyên truyền của các cơ quan chức năng trung ương (Ban Tuyên Giáo Trung ương, Bộ Thông tin – Truyền thông), của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Thực hiện có hiệu quả việc thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các cuộc vận động lớn. Phản ánh kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị ở các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị trong tỉnh; thông tin tình hình trong nước và quốc tế. Phát hiện, phản ánh, biểu dương người tốt, việc tốt, những nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và những biểu hiện tiêu cực.

Khai thác, cung cấp thông tin lành mạnh, thiết thực, bổ ích, góp phần định hướng dư luận, nâng cao nhận thức, đáp ứng nhu cầu thông tin trong nội bộ và nhân dân. Bên cạnh đó, Báo Ấp Bắc còn tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, góp phần thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước.

Trong những năm qua Báo Ấp Bắc tiếp tục duy trì và nỗ lực nâng cao chất lượng nội dung 3 kỳ báo/tuần. Với 12 trang mỗi kỳ, báo luôn nghiên cứu cải tiến, đổi mới hình thức; chú trọng xây dựng lại kết cấu, bố cục cho từng trang, sắp xếp bố trí lại các chuyên mục, chuyên trang cho phù hợp, màu sắc tươi tắn, hài hòa hơn và mở thêm một số chuyên trang, chuyên mục mới. Qua thăm dò bạn đọc và đồng nghiệp đều có cùng nhận xét: Hàm lượng thông tin trên báo in được dồi dào, phong phú hơn và có tính phát hiện tốt hơn.

Cùng với nỗ lực đó, Báo Ấp Bắc vừa chính thức ra mắt báo điện tử, đánh dấu bước phát triển của Báo Ấp Bắc là mở ra được một loại hình báo chí mới. Hoạt động của Báo Ấp Bắc điện tử bước đầu đã tạo sự lan tỏa về thông tin tuyên truyền, có hiệu quả tương tác giữa báo in và báo mạng, đạt hiệu ứng tích cực trong công chúng.

Từ khi chuyển từ thực hiện Nghị định 10 sang thực hiện Nghị định 43 của Chính phủ, hoạt động của Tòa soạn Báo Ấp Bắc tiếp tục ổn định. Mặc dù buớc đầu gặp không ít khó khăn, nhưng tập thể cơ quan đã có nhiều cố gắng để khắc phục, vượt qua. Được sự hỗ trợ từ ngân sách tỉnh kết hợp với nuôi dưỡng, khai thác thêm các nguồn thu và thực hành tiết kiệm trong chi tiêu, nên sau khi trừ các chi phí hoạt động, hoàn thành nghĩa vụ thuế, đã trích lập được các loại quỹ theo quy định. Nhìn chung, Báo Ấp Bắc đã thực hiện có hiệu quả trong việc chuyển đổi cơ chế quản lý tài chính từ đơn vị hành chính sang đơn vị sự nghiệp có thu.

Trong lúc số lượng phát hành báo chưa đảm bảo cân đối về tài chính, giá giấy và công in báo cùng mọi chi phí khác đều tăng, kinh phí cấp bù từ ngân sách còn khiêm tốn nhưng Báo Ấp Bắc đã cố gắng cân đối được giữa thu và chi, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách, cải thiện được phần nào thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức ở cơ quan.

Để không ngừng nâng chất hoạt động và phát triển về mọi mặt, trong thời gian tới Báo Ấp Bắc tiếp tục phát huy năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của chi bộ Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Ban Biên tập; củng cố, kiện toàn về mặt tổ chức, nhân sự; nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể và các phòng chuyên môn. Chú trọng cải cách thủ tục hành chính, cải tiến lề lối làm việc. Thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cơ quan. Xây dựng chi bộ Đảng và cơ quan luôn trong sạch vững mạnh.

Thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ và các quy chế đã được xây dựng ở cơ quan. Quan tâm củng cố, giữ vững khối đoàn kết nội bộ. Chú trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng và thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức.

Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng nội bộ, giúp cho mỗi cán bộ, phóng viên, biên tập viên và nhân viên có quan điểm, lập trường, tư tưởng ổn định, bản lĩnh chính trị vững vàng; luôn khắc phục mọi khó khăn, phát huy tốt năng lực và tính sáng tạo, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước công việc; thực hiện tốt Chuẩn mực đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Quy định về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.

Tích cực hưởng ứng các cuộc vận động, các phong trào thi đua, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; luôn đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; giữ vững danh hiệu cơ quan văn minh và an toàn về an ninh trật tự.

Bảo đảm thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích và đúng Luật Báo chí. Luôn bám sát định hướng thông tin, tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin – Truyền thông; thực hiện tốt tinh thần chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và UBND tỉnh trong công tác thông tin, tuyên truyền trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là tuyên truyền đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Tuyên truyền, vận động nội bộ và nhân dân tích cực hưởng ứng các cuộc vận động lớn, các phong trào hành động cách mạng, kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương; giới thiệu gương người tốt việc tốt trong các phong trào thi đua ở các ngành, các cấp, các lĩnh vực; tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và mọi biểu hiện tiêu cực khác.

Kịp thời tuyên truyền phản bác những luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch. Nâng cao uy tín, chất lượng, hiệu quả trong công tác bạn đọc; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan xem xét, giải quyết, trả lời trên báo những vấn đề mà bạn đọc phản ánh, thắc mắc, bức xúc, khiếu nại, tố cáo hoặc những việc mà bạn đọc quan tâm.

Tiếp tục cải tiến, đổi mới hình thức và nâng chất nội dung thông tin, tuyên truyền trên báo in và báo điện tử; vận động, khuyến khích phóng viên, cộng tác viên cung cấp nhiều tin, bài, hình ảnh, tư liệu có chất lượng. Phối hợp với các sở, ban, ngành, MTTQ, đoàn thể và cá nhân trong, ngoài tỉnh để mở thêm các chuyên mục, chuyên trang, phụ trang… nhằm thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền, đáp ứng đuợc nhu cầu thông tin của bạn đọc.

Kết hợp nhiều biện pháp để tuyên truyền, giới thiệu, vận động nội bộ và nhân dân mua, đọc Báo Ấp Bắc ngày càng nhiều, góp phần tăng số lượng phát hành báo trong cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.

Đầu tư mua sắm, trang bị thêm phương tiện, máy móc, thiết bị hiện đại để đáp ứng yêu cầu các hoạt động của Tòa soạn nói chung, đặc biệt cho hoạt động của báo in và báo điện tử.

Tăng cường quản lý, tiếp tục thực hiện tốt việc công khai, minh bạch trong công tác tài chính; phấn đấu nuôi dưỡng, ổn định các nguồn đã thu được và khai thác thêm nguồn thu trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn được cấp trên cho phép. Đảm bảo cân đối trong thu – chi tài chính. Hoàn thành tốt nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Trích lập đầy đủ các loại quỹ theo quy định.

Thực hành tiết kiệm trong chi tiêu, bảo đảm vừa tiết kiệm được kinh phí nhưng mọi công việc vẫn đạt chất lượng và hiệu quả cao. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức; chú ý điều chỉnh tăng chế độ nhuận bút cho phóng viên và cộng tác viên.

Tiếp tục quan hệ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan và một số doanh nghiệp để duy trì tổ chức tốt Giải Việt dã Báo Ấp Bắc và các hoạt động thể thao hằng năm; đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả các hoạt động xã hội, từ thiện.

Phát huy truyền thống của quê hương Ấp Bắc anh hùng, Báo Ấp Bắc sẽ tiếp tục phấn đấu nâng cao chất lượng hoạt động; nêu cao tinh thần “Đoàn kết, năng động, đổi mới” để đưa Báo Ấp Bắc phát triển toàn diện, xứng đáng là cơ quan của Đảng bộ tỉnh, tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Tiền Giang.

Thực trạng báo in VN

Thực trạng tình hình báo chí, xuất bản hiện nay ở nước ta 

a. Bước phát biển của báo chí, xuất bản trong thời kỳ đôi mới đất nước.  

Trải  qua  gần  25  năm  báo  chí  Việt  nam  đồng  hành  cùng  công 

cuộc  đổi  mới  đất  nước,  hệ  thống  báo  chí,  xuất  bản  cả  nước  đã  có 

những phát triển vượt bậc. Nếu như trước năm 1986, trong toàn quốc 

mới có hơn 200 tờ báo, tạp chí và mấy trăm bản thông tin khoa học kỹ 

thuật; năm 1990, cả nước ta có 258 báo và tạp chí; tổng số nhà báo đã 

được cấp thẻ nhà báo gần 15.000 người và hàng vạn người viết nghiệp 

dư; hơn 750 cơ quan báo và tạp chí (tăng lên 2,36 lần); bao gồm: báo 

viết,  báo  hình,  báo  nói,  báo  điện  tử,  với  trên  800  Ên  phẩm  các  loại 

(tăng khoảng 3 lần) và hơn 1.000 bản tin. Số lượng báo chí phát hành 

hằng năm trên 600 triệu bản; bình quân theo đầu người 7,5 bản; phát 

hành trong ngày tới hầu hết các trung tâm tỉnh, huyện (quận), thị xã, 

thị trấn. Nội dung, hình thức báo chí của chúng ta hiện nay ngày càng 

phong phú, đa dạng, hay và đẹp ngang tầm khu vực cũng như quốc tế, 

đáp ứng được nhu cầu thông tin về mọi lĩnh vự của mọi tầng lớp nhân 

dân, mọi dân tộc và mọi vùng, miền trên đất nước Việt Nam. Nước ta 

hiện có 55 nhà xuất bản, in khoảng 20 nghìn đầu sách một năm, với 

khoảng trên 240 triệu bản; bình quân theo đầu người trên 3 cuốn sách. 

Có  thể  nói,  báo  chí,  xuất  bản  đã  đóng  góp  rất  lớn  vào  sự  phát 

triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần nâng cao dân trí cho mọi 

tầng lớp nhân dân Việt Nam. Vì hệ thống báo chí, xuất bản cách mạng 

Việt Nam là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị, tổ 

chức xã hội nghề nghiệp…; đồng thời, là diễn đàn tin cậy của các tầng 

lớp nhân dân, đã và đang đáp ứng quyền được cung cấp thông tin của 

nhân dân. Hiện  nay,  hoạt  động  báo  chí,  xuất 

bản đang góp phần tuyên truyền, làm cho Cuộc vận động “Học tập và 

làm  theo  tấm  gương  đạo  đức  Hồ  Chí  Minh”  do  Đảng  ta  phát  động, 

phát triển ngày càng sâu rộng trong xã hội. Hoạt động báo chí, xuất 

bản Việt Nam đang có được những điều kiện thuận lợi nhất để phát 

triển. 

Tuy còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc, nhưng trong những năm 

đổi mới vừa qua, báo chí, xuất bản Việt Nam đã thực sự trở thành lực 

lượng nòng cốt giữ vững dòng thông tin chủ lưu lành mạnh trong xã 

hội, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội 

chủ nghĩa. Những đóng góp của báo chí, xuất bản đối với sự phát triển 

của đất nước được biểu hiện rất sinh động, phong phú, cụ thể ở tất cả 

các lĩnh vực của đời sống xã hội, xin khái quát mấy vấn đề sau: 

Một là, trên lĩnh vực tư tưởng – lý luận, báo chí, xuất bản đã tham 

gia tích cực như một binh chủng tinh nhuệ của Đảng, kiên quyết bảo 

vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, Nhà 

nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, báo chí, xuất bản đã tích 

cực làm tốt công tác tuyên truyền cổ vũ động viên toàn dân đoàn kết, 

đấu tranh làm thất bịa âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” kết hợp 

với bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. 

Với vai trò là công cụ chính trị sắc bén của Đảng, báo chí, xuất 

bản đã phục vụ rất hữu hiệu công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực 

tiễn, hình thành và từng bước phát triển lý luận của sự nghiệp đổi mới, 

góp phần quan trọng làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở 

nước ta trong điều kiện mới của đất nước. 

Hai là, trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng và các 

tệ nạn xã hội khác của toàn Đảng, toàn dân ta, báo chí, xuất bản ở mọi 

cấp,  mọi  ngành  trong  cả  nước  đã  dũng  cảm  và  nhanh  chóng  “nhập 

cuộc”. Bằng những thông tin nhanh nhạy, kịp thời, chính xác, báo chí, 

xuất bản đã tập trung phản ánh chân thực tâm tư, nguyện vọng chính 

đáng  của  nhân  dân;  phát  hiện  các  vấn  đề  bức  xúc  trong  xã  hội  và 

phanh phui được không Ýt vụ việc tiêu cực, tham nhũng lớn. 

Báo chí, xuất bản đã thực hiện tốt lời di huấn của Chủ tịch Hồ 

Chí Minh về “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá 

nhân” góp phần xây dựng môi trường dân chủ và lành mạnh trong xã 

hội, tạo nên điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới phát triển và 

thu được nhiều thành tựu quan trọng. 

Ba là, báo chí, xuất bản đã thực hiện tốt chức năng tuyên truyền, 

cổ động và nhân điển hình “người tốt, việc tốt”. 

Với vinh dự và trách nhiệm là “người tuyên truyền tập thể, người 

cổ vũ tập thể”.

thực hiện tốt lời dạy của 

Bác Hồ kính yêu: “Văn hoá là một mặt trận. Cán bộ báo chí cũng là 

người chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của 

họ”. 

Hiện nay, trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, các thế lực thù 

địch đặc biệt coi trọng sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để 

thực hiện mưu đồ chống phá cách mạng nước ta trên lĩnh vực tư tưởng 

– văn hoá. Cùng với những thông tin bịa đặt, nói xấu, bôi nhọ, tìm mọi 

cách hậ bệ uy tín lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí 

Minh, chúng rất coi trọng truyền bá văn hoá và lối sống phương Tây 

hòng làm xói mòn niềm tin, lý tưởng trong cán bộ, đảng viên và trong 

nhân dân. Chỉ thị số 22 – CT/TW của Bộ Chính trị về công tác báo chí, xuất bản đã 

nêu rõ: “Báo chí phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân 

dân, tính chiến đấu… kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm 

sai trái, thù địch, khắc phục các biểu hiện thương mại hoá, xa rời tôn 

chỉ mục đích và các biểu hiện lệch lạc khác”. 

c. Những yếu kém của hoạt động báo chí – xuất bản nước ta hiện nay 

Thời đại thông tin bùng nổ, bất cứ ở đâu ai cũng có thể đọc sách 

báo, quanh chóng ta. Không thể phủ nhận thông tin đa 

dạng, phong phú, nhiều chiều đã mang lại nhiều lợi Ých cho độc giả. 

Tuy nhiên chất lượng thông tin, đặc biệt là độ chính xác và tính định 

hướng của thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng luôn luôn là mối quan tâm của xã hội, vì không Ýt trường hợp người đọc, 

người xem đã rơi vào tình trạng bối rối không biết tin ai, đâu là hư, 

đâu là thực, đâu là đúng, đâu là sai… 

Có một thực tế hiện nay là thông tin nhiều chiều, thông tin không 

được lựa chọn chặt chẽ, thẩm định kỹ lưỡng, thậm chí thông tin không 

có  định  hướng  tư  tưởng  và  thiếu  tính  giáo  dục,  thẩm  mỹ  xuất  hiện 

không Ýt trên các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay. Từ đó 

dẫn đến một hệ quả là cái thật – cái giả, cái tốt – cái xấu, cái hay – cái 

dở, cái đúng – cái sai, cái cao thượng  – cái đê hèn, cái tích cực  – cái 

tiêu cực, cái văn minh – cái lạc hậu vô tình đạn xen vào nhau trong các 

thông tin nên công chúng khó phân định rạch ròi và vô hình trung đẩy 

người ta vào một “Đại dương thông tin mênh mông” không biết đâu 

mà lần. Nay tốt, mai xấu, nay là anh hùng, mai là kẻ tội đồ, báo này 

bảo đúng, đài kia bảo sia, công chúng bị “ngợp” trong các luồng thông 

tin  nhiều  chiều  Êy  thì  biết  đặt    niềm  tin  vào  đâu  ?  và  chính  những 

thông tin như vậy cũng là một thứ áp lực đối với con người trong xã 

hội hiện đại ! 

Một  bộ  phận  những  người  làm  báo  thể  hiện  tư  tưởng  cho  rằng 

báo  chí phải trở thành quyền lực trong  xã  hội  (quyền lực thứ  tư)  để 

phản biện xã hội và cao hơn là trở thành “Diễn đàn” định hướng dư 

luận, kích động chống đối thoát khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý 

của nhà nước. 

Lợi dụng chống tiêu cực, tham nhũng để đưa thông tin quá mức 

về  tiêu  cực,  mặt  trái  xã  hội.  Người  ta  ước  tính  thời  gian  qua  lượng 

thông tin tiêu cực gấp tới hơn 10 lần những bài tin về người tốt, việc 

tốt. Đã có một số bài chỉ trích sự điều hành của chính phủ, phê phán 

thái quá những yếu kém của nhà nước về quản lý kinh tế – xã hội như 

 

 

18 

về giải pháp kích cầu, tăng giá điện, khai thác bôxits tại Tây Nguyên… 

ảnh hưởng xấu tới uy tín và sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước, như: Báo 

thanh niên có bài viết đòi “thay máu” bộ máy lãnh đạo; báo Đại đoàn 

kết (14/2/2008) đăng bài “đợt sinh hoạt chính trị lớn năm 2008” của 

Thái Duy cho rằng Việt Nam đã lựa chọn con đường CNXH xa lạ dẫn 

đến nhiều sai lầm…, báo Sài Gòn còn đăng bài bôi nhọ, hạ thấp uy tín 

của lãnh đạo nhà nước và chính phủ. 

Hoạt động phức tạp trên mạng Internet là đáng báo động, nhiều 

website, Blog xuất hiện với những nội dung phản động, có sự cấu kết 

giữa các phần tử biến chất trong nước với bọn phản động nước ngoài. 

Phó đại sứ Mỹ tại Việt Nam 

phát biểu tại phiên điều trần của Uỷ ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ ngày 

13/2/2008  cho  rằng  “việc  bùng  nổ  thông  tin  trên  internet  và  sự  xuất 

hiện Blog tại Việt Nam đang là cơ hội để những người bất đồng chính 

kiến kêu gọi người dân thay đổi chế độ, coi đây là yếu tố thúc đẩy quá 

trình thay đổi tại Việt Nam”. 

Những  biểu  hiện  trên  mỗi  ngày  một  tăng  tạo  ra  sự  “phân  tâm” 

trong  các  tầng  lớp  nhân  dân,  đồng  thời  làm  cho  diện  mạo  quốc  gia, 

dân tộc bị giảm sút đáng kể trong quá trình giao lưu hội nhập với thế 

giới. Đất nước dần dần đang vơi đi một nhuệ khí

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử

15. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử./.

Vai trò quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử

1. Khái niệm và vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử

a) Khái niệm quần chúng nhân dân

– Khái niệm: quần chúng nhân dân là một cộng đồng có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.

–         Những lực lượng cơ bản tạo thành quần chúng nhân dân:

+ Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.

+ Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.

+ Những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

b) Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử

– Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính của lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Bởi vì:

+ Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội. Đây là nhu cầu quan trọng bậc nhât của mọi xã hội ở mọi thời đại.

+ Quần chúng nhân dân là người sáng tạo và kiểm chứng những giá trị văn hóa tinh thần. Mọi giá trị tinh thần chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó phục vụ quần chúng nhân dân, được nhân dân chấp nhận, truyền bá thành những giá trị phổ biến và vật chất hóa các giá trị đó trong hoạt động thực tiễn.

+ Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, mọi cuộc cách mạng xã hội chỉ thành công khi nó xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của qcnd, có sự tham gia đông đảo, tự giác, tích cực của quần chúng nhân dân. Do vậy, cách mạng chính là sự nghiệp của qcnd.

– Vai trò sáng tạo của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào các điều kiện sau: trình độ phát triển của phương thức sản xuất, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân, giai cấp, bản chất chế độ xã hội,…Do vậy, phải có quan điểm toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể khi phân tích vai trò sáng tạo lịch sử của qcnd.

-Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Quan điểm khoa học của CN Mác – Lênin về vai trò quyết định của qcnd đã khắc phục được các quan điểm sai lầm về lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người.

+ Cung cấp một cơ sở khoa học để các Đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng qcnh trong cách mạng xhcn.

 2) Khái niệm và vai trò của lãnh tụ trong lích sử

a) Khái niệm lãnh tụ

– Khái niệm: lãnh tụ là khái niệm thường được dụng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.

Liên quan đến khái niệm lãnh tụ còn có khái niệm vĩ nhân: vĩ nhân là khái niệm dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật… Trong nhiều trường hợp, lãnh tụ và vĩ nhân là một.

– Để trở thành lãnh tụ gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:

+ Có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch sử.

+ Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của lịch sử.

+ Gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích của qcnd.

– Mỗi lãnh tụ đều thuộc một thời đại nhất đinh, không có lãnh tụ cho mọi thời đại.

b) Vai trò của lãnh tụ trong lịch sử

– Lãnh tụ có vai trò định hướng, dẫn dắt, tổ chức, lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành phong trào cách mạng, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.

+ Để định hướng, dẫn dắt được phong trào thì lãnh tụ phải nhận thức và khái quát được ý chí, lợi ích, nguyện vọng của qcnd lên tầm tư tưởng.

+ Để tổ chức và lãnh đạo thành công, thúc đẩy phong trào cách mạng thì lãnh tụ phải là người sáng suốt, đức độ, tài năng xuất chúng, có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào.

– Đánh giá cao vai trò của lãnh tụ, cá nhân xuất chúng, nhưng chủ nghĩa Mác lênin kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân vì điều đó sẽ dẫn đến tình trạng chỉ thấy được vai trò quyết định tất cả của cá nhân người lãnh đạo, không thấy hoặc xem nhẹ vai trò của lãnh đạo tập thể và quần chúng nhân dân.

3. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ

– Giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ là 2 mặt của một thể thống nhất, cả 2 đều cần có nhau. Không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ. Những cá nhân ưu tú, những lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, vì vậy, họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.

– Quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu và hành động cách mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định. Quan hệ lợi ích là cầu nối, là nội lực để liên kết các cá nhân cũng như quần chúng nhân dân và lãnh tụ với nhau thành một khối thống nhất về ý chí và hành động.

– Sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử:

+ Quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển sự phát triển của lịch sử.

+ Lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt, tổ chưc lãnh đạo phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.

Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội

14. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.

BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI

1. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội

a) Khái niệm tồn tại xã hội

– Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.

– Các yếu tố cơ bản tạo thành tồn tại xã hội:

+ Phương thức sản xuất vật chất: cách thức con người tiến hành sx trong những giai đoạn lịch sử nhất định.

+ Điều kiện tự nhiên: hoàn cảnh địa lý;

+ Dân số và mật độ dân số: là chủ thể của các hoạt động vật chất và quan hệ vật chất.

Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất vì nó có khả năng chi phối các yếu tố khác, quyết định sự phát triển của mỗi xã hội, mỗi quốc gia dân tộc.

b) Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội

– Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của đời sống xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.

– Kết cấu của ý thức xh:

+ Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học,…

+ Theo trình độ phản ánh, ý thức xã hội bao gồm ý thức xh thông thường và ý thức lý luận.

-> Ý thức xã hội thông thường: là toàn bộ những tri thức, những quan niệm… của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận. Trong ý thức xã hội thông thường, tâm lý xã hội là bộ phận rất quan trọng.

-> Ý thức lý luận: là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.

+ Theo trình độ và phương thức phản ánh gồm có: tâm lý xh và hệ tư tưởng.

-> Tâm lý xh: Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, tâm trạng, tập quán,… của những cộng đồng người nhất định, là sự phản ánh trực tiếp và tự phát đối với hoàn cảnh sống của họ.

-> Hệ tư tưởng: là trình độ nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng xh như chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo,…; là sự phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội.

2. tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

a) Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

– Tồn tại xã hội là cơ sở nảy sinh ý thức xã hội, đời sống vật chất là nền tảng nảy sinh đời sống tinh thần.

– Ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội.

– Mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xh sớm muộn sẽ biến đổi theo.

– Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ytxh là sự phản ánh ttxh cho nên muốn tìm hiểu ytxh và nguồn gốc của nó chúng ta phải tìm hiểu những điều kiện sinh hoạt vật chất đã sản sinh ra nó.

b) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

–   Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:

Nguyên nhân:

Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.

Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.

–   Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:

Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.

Khi nói tư tưởng tiên tiến có thể đi trước tồn tại xã hội, điều đó không có nghĩa là ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa, mà trái lại nó phản ánh chính xác, sâu sắc tồn tại xã hội.

–   Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình:

+ Tính kế thừa trong sự phát triển của ytxh thể hiện ở chỗ: những quan điểm lý luận của mỗi thời đại có sự kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.

+ Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên khi giải thích một tư tưởng nào đó chúng ta không chỉ dựa vào những quan hệ kt hiện tại mà còn phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó.

+ Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó.

– Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng:

+ Thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến sự phát triển của các hình thái ý thức khác.

+ Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.

–  Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội:

Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào:

+ Những điều kiện lịch sử cụ thể;

+ Tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng;

+ Mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội;

+ Mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.

* Ý nghĩa phương pháp luận:

– Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy:

+ Công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

+ Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội;

+ Mặt khác, cũng cần thấy rằng, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.

– Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:

+ Một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;

+ Mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây dựng con người mới.

+ Để xây dựng được đời sống tinh thần của CNXH, cần phải cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Câu 13

13. Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng chức năng, các kiểu và các hình thức Nhà nước.

1. Bản chất và nguồn gốc của nhà nước

a) Nguồn gốc của nhà nước

 – Nguồn hốc trực tiếp: sự ra đời của nhà nước là do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc, không thể điều hoà được.

– Nguồn gốc sâu xa: do sự phát triển của llsx đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời, đó là nhà nước.

b) Bản chất của nhà nước

– Xét về bản chất, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự xã hội hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.

+ Chỉ có giai cấp thống trị về kinh tế mới có điều kiện vật chất để lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước.

+ Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế mới trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, qua đó bảo vệ trật tự hiện hành, đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác – giai cấp bị áp bức, bóc lột. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức nhà nước của giai cấp bóc lột.

+ Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị: nhà nước chủ nô bảo vệ lợi ích cho giai cấp chủ nô, nhà nước phong kiến bảo vệ lợi ích cho giai cấp địa chủ phong kiến, nhà nước tư sản bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản. 

– Từ bản chất đó suy ra:

+ Không có và không thể có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc nhà nước chung cho mọi giai cấp, nhà nước không thể là lực lượng điều hòa sự xung đột giai cấp, mà trái lại, nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt.

+ Nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động do nhà nước tiến hành, xét cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.

– Cũng có trường hợp, nhà nước giữ được một mức độ độc lập nhất định đối với cả hai giai cấp đối địch, khi:

+ Cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân bằng nhất định.

+ Khi thực hiện sự thỏa hiệp về quyền lợi tạm thời giữa những giai cấp để chống lại một giai cấp khác.

Những trường hợp trên là có tính chất ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển của nền kinh tế – xã hội nói chung và của cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng sẽ phá vỡ thế cân bằng và sự thoả hiệp tạm thời giữa các giai cấp với nhau và tất yếu sẽ tập trung quyền lực vào tay một giai cấp nhất định.

2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước

a) Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định

– Nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú. Trong phạm vi biên giới lãnh thổ có thể có nhiều giai cấp, cộng đồng theo các huyết thống khác nhau, quyền lực nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ. Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc gia nhất định.

– Đây là đặc trưng làm rõ sự khác biệt của nhà nước với các tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên thủy được hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống.

b) Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội

– Bộ máy quyền lực đó bao gồm: các đội vũ trang đặc biệt như quân đội, cảnh sát, nhà tù,… và bộ máy quản lý hành chính. Trong đó, “quân đội thường trực và cảnh sát là những công cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà nước” (Ln33,12), làm cho nhà nước thể hiện rõ bản chất của nó là công cụ trấn áp của giai cấp này (giai cấp abbl) với giai cấp khác (bị abbl).

– Việc thực thi quyền lực nhà nước: những người đại diện cho quyền lực nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế. Do vậy, mặc dù các cơ quan quyền lực nhà nước đều từ xã hội mà ra, nhưng chúng ngày càng đối lập với nhân dân.

c) Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị

– Mục đích của việc hình thành hệ thống thuế khóa: để nuôi bộ máy cai trị. Nhờ có sự chu cấp của nhân dân như vậy các nhà nước mới có thể tồn tại được.

– Với việc thực hiện hệ thống thuế khóa, nhà nước của giai cấp bóc lột thể hiện rõ, nó không chỉ là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện sự bóc lột các giai cấp bị áp bức.

3. Chức năng cơ bản của nhà nước

a) Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội

– Chức năng thống trị chính trị của giai cấp:

Chức năng này nói lên rằng, mọi nhà nước đều là công cụ chuyên chính của một giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, biện pháp để bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó. Do vậy, chức năng này thể hiện rõ nhất bản chất của nhà nước.

– Chức năng xã hội của nhà nước:

Chức năng này nói lên rằng mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung, giải quyết một số công việc chung vì sự tồn tại của xã hội; trong giới hạn có thể được, nó phải thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.

– Mối quan hệ giữa 2 chức năng:

+ Chức năng thống trị chính trị có vai trò chi phối phương hướng và mức độ thực hiện chức năng xã hội.

+ Chức năng xã hội được thực hiện tốt sẽ tạo ra điều kiện để duy trì xã hội trong vòng trật tự theo quan điểm, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nghĩa là sự thống trị chính trị của giai cấp cầm quyền chỉ được đảm bảo khi nhà nước thực hiện tốt chức năng chức năng xã hội.

b) Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại

– Chức năng đối nội của nhà nước:

+ Sử dụng luật pháp và bộ máy nhà nước để củng cố, duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp cầm quyền.

+ Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện khác như cơ quan thông tin, tuyên truyền, văn hóa, giáo dục,… để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.

– Chức năng đối ngoại của nhà nước:

+ Nhằm bảo vệ biên giới, thậm chí mở mang lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.

+ Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Việc thực hiện tốt chức năng này sẽ tránh được những nguy cơ, đồng thời phát huy sức mạnh ngoại lưc, thu hút đầu tư hoặc đẩy mạnh xuất khẩu để phát triển đất nước, địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền càng được củng cố.

– Mội quan hệ giữa 2 chức năng: Cả hai chức năng của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất:

+ Chức năng đối nội là chủ yếu: bởi vì nhà nước ra đời và tồn tại được là do cơ cấu giai cấp bên trong của mỗi quốc gia quy định; lợi ích của giai cấp thống trị trước hết và chủ yếu là duy trì địa vị cai trị nhân dân trong nước.

+ Chức năng đối ngoại: do chức năng đối nội quy định, vì nó phụ thuộc vào bản chất và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Tuy nhiên, tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.

4. Các kiểu và các hình thức nhà nước

a) Khái niệm

– Kiểu nhà nước:

+ Khái niệm: kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội nào.

+ Kiểu nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,…

+ Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau.

– Hình thức nhà nước:

+ Khái niệm: hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị.

+ Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp – xã hội, bởi đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước…

Như vậy, một kiểu nhà nước có thể tồn tại nhiều hình thức nhà nước.

b) Các kiểu và hình thức nhà nước trong lích sử

– Nhà nước chiếm hữu nô lệ:

+ Là nhà nước của giai cấp chủ nô, phục vụ cho lợi ích của giai cấp chủ nô thống trị, thực hiện chuyên chính đối với nô lệ.

+ Các hình thức của nhà nước chủ nô: chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà, chính thể quý tộc và chính thể dân chủ. Trong nhà nước cộng hòa dân chủ chủ nô, pháp luật quy định mọi người đều có quyền tham gia bầu cử, nhưng đó chỉ là quyền của chủ nô và một phần người dân tự do; trong nhà nước quân chủ chủ nô, mọi quyền hành nằm trong tay vua – người đại diện cho quyền lực của giai cấp chủ nô.

– Nhà nước phong kiến:

+ Là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến, thay thế cho kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ. Kiểu nhà nước này được xây dựng dựa trên chế độ chiếm hữu về ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc, phục vụ lợi ích cho giai cấp địa chủ quý tộc thống trị, thực hiện chuyên chính với nông nô, nông dân.

+ Các hình thức của nhà nước phong kiến: hình thức quân chủ phân quyền và hình thức quân chủ tập quyền.

– Nhà nước tư sản:

+ Là nhà nước của giai cấp tư sản, thay thế cho kiểu nhà nước phong kiến. Kiểu nhà nước này được xây dựng dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX, phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản, thực hiện chuyên chính với giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

+ Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nói chung, chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hoà và hình thức quân chủ lập hiến.

-> Hình thức quân chủ lập hiến: vua là người đứng đầu quốc gia nhưng chỉ trên danh nghĩa mà không có tựhc quyền, nghị viện là cơ quan lập pháp và nội các là cơ quan nắm mọi quyền hành.

-> Hình thức cộng hoà lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như cộng hoà Đại nghị

–  Nhà nước vô sản:

+ Nhà nước vô sản là tất yếu, bởi vì:

-> Trong thời kỳ quá độ xã hội còn tồn tại các giai cấp bóc lột và các lực lượng xã hội, chúng chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khiến giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải trấn áp chúng bằng bạo lực.

-> Trong thời kỳ quá độ còn có các giai cấp và tầng lớp trung gian khác, do địa vị kinh tế – xã hội của mình, họ dễ dao động giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, họ không thể tự mình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cho nên, cần phải có chuyên chính vô sản để bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân, thu hút đông đảo các tầng lớp trung gian về phía mình để tiến lên xây dựng xh mới.

 + Nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử, bởi vì:

-> nó chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản;

-> nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử của xã hội loài người;

-> chức năng cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nó không phải là chức năng bạo lực mà là chức năng tổ chức xây dựng toàn diện xã hội mới – xh xhcn, cscn;

-> Quyền lực của nhà nước thuộc về đại đa số nhân dân lao động dựa trên nền tảng liên minh công – nông.

-> Nhà nước vô sản là tổ chức do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, qua đó Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Đây yếu tố bảo đảm bản chất giai cấp vô sản của nhà nước và là điều kiện để giữ tính nhân dân của nhà nước đó.

Với những tính chất đặc biệt như vậy, Lênin khẳng định: nhà nước vô sản là “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là nhà nước “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế, xã hội của sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước sẽ không còn. Sự mất đi của nhà nước vô sản không phải bằng con đường “thủ tiêu”, “xóa bỏ” mà bằng con đường “tự tiêu vong” với một quá trình rất lâu dài.

+ Các hình thức của nhà nước vô sản:

-> Nhà nước chuyên chính vô sản kiểu công xã: hình thức này xuất hiện gắn với sự ra đời của Công xã Pari năm 1871.

-> Cộng hòa Xôviết: ra đời sau cách mạng tháng Mười năm 1917 ở Nga.

-> Nhà nước dân chủ nhân dân: CHĐCN Trung Hoa, v.v..

Hình thức cụ thể của nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ có thể rất khác nhau, nhưng bản chất của chúng chỉ là một: đó là sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân, do cách mạng xhcn sản sinh ra và có sứ mạnh xây dựng thành công CNXH.

– Nhà nước ở Việt Nam hiện nay:

+ Nhà nước ta hiện nay là:

-> Nhà nước CHXHCNVN, đóng vai trò là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân;

-> Được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; lấy liên minh công – nông – trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN;

->Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;

-> Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động; do nhân dân lập ra thông qua tổng tuyển cử toàn dân, được sự kiểm soát của nhân dân.

+ Để xây dựng nhà nước ta thực sự của dân, do dân, vì dân; trong sạch, vững mạnh, chúng ta cần phải:

-> đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.

-> Cải cách nền hành chính nàh nước, bao gồm cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức.

-> Cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp.

-> Đẩy mạnh cuộc đáu tranh chống tham nhũng, quan liêu trong bộ máy nhà nước. 

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về nguồn gốc của giai cấp, đấu tranh giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp với sự phát triển của các xã hội có giai cấp

12. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về nguồn gốc của giai cấp, đấu tranh giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp với sự phát triển của các xã hội có giai cấp.

Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

1. Giai cấp Khái niệm giai cấp

– Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp được thể hiện rõ nét nhất trong định nghĩa giai cấp của Lênin: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”(LNTT39, 1977, tr 17).

– Phân tích khái niệm:

+ Định nghĩa đề cập đến giai cấp với tính cách là một hệ thống những tập đoàn người trong một chế độ kinh tế – xã hội nhất định, do chế độ ấy sản sinh ra. Ví dụ, chế độ TBCN đã sản sinh ra hệ thống các giai cấp của nó là: giai cấp tư sản, giai cấp vô sản và các giai tầng khác. Khi nào chế độ kt – xh TBCN còn tồn tại thì hệ thống giai cấp này còn tồn tại.

+ Để nhận thức về giai cấp trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định, cần phải dựa trên những vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, các giai cấp khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. Đây là cơ sở quan trọng nhất để phân chia các giai cấp.

Thứ hai, các giai cấp khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý lao động xã hội, tổ chức quản lý sản xuất.

Thứ ba, các giai cấp khác nhau về phương thức thu nhận của cải xã hội.

+ Từ những sự khác nhau trên dẫn đến sự khác nhau về địa vị giữa các giai cấp trong một hệ thống sản xuất sản xuất xã hội nhất định. Suy cho cùng thì giai cấp nào nắm giữ tlsx thì giai cấp đó sẽ đứng ở địa vị là giai cấp thống trị; giai cấp nào không có tlsx sẽ ở vị trí bị thống trị. Và chính sự khác nhau về địa vị như vậy mà giai cấp này có thể chiếm đoạt lao động của giai cấp khác.

2) Nguồn gốc giai cấp

– Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội: là do sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tlsx, đặc biệt là những tlsx chủ yếu của xh.

– Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành giai cấp là do sự phát triển của llsx đến một mức độ làm cho năng suất lao động tăng lên, làm xuất hiện của cải dư thừa trong xã hội, khi đó những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt tài sản chung đó làm của riêng, từng bước hình thành nên chế độ tư hữu, tạo ra cơ sở phân hóa xã hội thành các giai cấp.

3) Kết cấu xã hội – giai cấp

– Mỗi kết cấu xã hội – giai cấp của một xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau, là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế – xã hội đó, đồng thời là những giai cấp quyết định sự tồn tại, phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó.

– Ngoài hai giai cấp cơ bản, mỗi kết cấu xã hội – giai cấp còn bao gồm một số giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian.

+ Giai cấp không cơ bản: có giai cấp là tàn dư của phương thức sản xuất cũ (như nô lệ trong buổi đầu của xã hội tư bản), có giai cấp là mầm mống của phương thức sản xuất tương lai (như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của xã hội phong kiến).

+ Tầng lớp trung gian: Bất cứ xã hội có giai cấp nào cũng có một số tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hóa xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội.

2. Đấu tranh giai cấp

a) Khái niệm đấu tranh giai cấp

– Định nghĩa đấu tranh giai cấp của Lênin: là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”(LN7,237).

Định nghĩa cho thấy, thực chất của đấu tranh giai cấp trong lịch sử là cuộc đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị của giai cấp bị thống trị, những người lao động làm thuê, những người nô lệ, bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức và bóc lột. Trong thời đại ngày nay, biểu hiện là cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp tư sản.

– Vấn đề trung tâm, cơ bản của các cuộc đấu tranh giai cấp: đó là vấn đề chính quyền nhà nước. Bởi vì, chỉ khi nào giành được chính quyền, giai cấp cách mạng mới xác lập được nền chuyên chính của mình, tiến tới bảo đảm được quyền lực của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

b) Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

– Động lực cơ bản nhất nhất của sự phát triển, tiến bộ xh là sự vận động của mâu thuẫn trong ptsx, tức mâu thuẫn giữa llsx và qhsx, biểu hiện thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong xh có giai cấp, từ đó dẫn đến đấu tranh giai cấp.

– Đấu tranh giai cấp là một trong những phương thức, động lực của sự tiến bộ, phát triển xh trong điều kiện xh có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.

+ Trong các thời kỳ cách mạng, khi mà llsx phát triển thay đổi về chất mâu thuẫn gay gắt với qhsx lỗi thời,  thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao của nó là cách mạng xh dẫn đến sự ra đời của các hình thái ktxh, xh loài người bước sang một giai đoạn phát triển mới cao hơn.

+ Trong thời kỳ phát triển bình thường của các xh có giai cấp, tức là khi qhsx còn phù hợp với llsx, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển các mặt của đời sống xh. Bởi vì, đấu tranh giai cấp đã góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng.

– Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản:

+ Đây là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội, xóa bỏ tận gốc tình trạng abbl, bất công, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xhcs văn minh. Các cuộc đấu tranh trước đó về thực chất là thay chế độ abbl này bằng chế độ abbl khác.

+ Đây là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Bởi vì cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân là đưa đến một xh không còn phân chia giai cấp.

– Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong giai đoạn quá độ hiện nay:

+ Nước ta hiện nay, giai cấp và mâu thuẫn giai cấp vẫn còn tồn tại, nên đtgc là tất yếu.

+ Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là cuộc đấu tranh giữa 2 con đường TBCN và XHCN, giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với các nhân tố thúc đẩy đất nước theo hướng TBCN; giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng đi theo con đường độc lập dân tộc và CNXH do Đảng lãnh đạo, với một bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc lập dân tộc và CNXH, chống Đảng, Nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự xã hội và an ninh quốc gia.

+ Để thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, điều cơ bản là phải phát triển mạnh mẽ nền kt nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng CNXH đi đôi với bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chính quyền nhân dân; làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch;…

Lý luận hình thái kinh tế-xã hội; quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là quá trình lịch sử-tự nhiên. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

11. Lý luận hình thái kinh tế-xã hội; quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là quá trình lịch sử-tự nhiên. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

1/- Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

a. Mối quan hệ giữa llsx và qhsx là mối qh biện chứng, trong đó llsx quyết định qhsx và qhsx tác động trở lại llsx

– Vai trò quyết định của llsx đối với qhsx:               

+ Llsx như thế nào thì qhsx như thế ấy, tức là với một trình độ nhất định của llsx sẽ có một qhsx tương ứng.

Ví dụ : tương ứng với trình độ thủ công (công cụ thủ công đồ sắt) của lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất phong kiến.  Tương ứng với trình độ cơ khí, công nghiệp là qhsx TBCN.

+ Khi lực lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.

VD. Khi lực lượng sản xuất chuyển từ trình độ thủ công sang trình độ cơ khí thì cũng kéo theo sự mất đi của qhsx phong kiến và sự hình thành, phát triển qhsx TBCN.

Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định vì nó là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình đó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức. Nghĩa là, trình độ phát triển của llsx quy định cách thức con người quan hệ với nhau trong quá trình sx, quan hệ sx phụ thuộc vào thực trạng phát triển của llsx.

–  Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối, tác động trở lại llsx:

+ Qhsx thúc đẩy mạnh mẽ llsx phát triển nếu nó phù hợp với trình độ phát triển của llsx.

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà ở đó quan hệ sản xuất tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất, do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển, phát huy hết khả năng của nó.

+ Qhsx kìm hãm sự phát triển của llsx nếu nó không phù hợp với trình độ của llsx, sự không phù hợp đó diễn ra theo 2 trường hợp :1) qhsx lỗi thời, lạc hậu với llsx ; 2) trong qhsx có yếu tố vượt quá xa so với trình độ của llsx.

b. Mối quan hệ biện chứng giữa llsx và qhsx là mối qh thống nhất có bao hàm khả năng phát sinh mâu thuẫn:

– Thống nhất: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn thống nhất với nhau trong một phương thức sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất phù hợp, là hình thức tất yếu của llsx, tạo điều kiện thuận cho sự phát triển của llsx.

– Mâu thuẫn: Do llsx và qhsx có bản chất vận động khác nhau : llsx luôn vận động phát triển không ngừng, còn qhsx có tính ổn định tương đối, thậm chí bảo thủ. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định sẽ làm cho mối quan hệ giữa llsx với qhsx chuyển hóa từ trạng thái thống nhất sang mâu thuẫn,. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích”, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển.

– Do qhsx cũ luôn gắn với ợi ích của giai cấp thống trị cũ và luôn được giai cấp này tìm mọi cách để duy trì, bảo vệ vì vậy phải tiến hành cánh mạng xã hội để xóa bỏ qhsx cũ, xây dựng qhsx mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất.

– Quan hệ sản xuất mới này đến một lúc nào đó lại trở nên không còn phù hợp với lực lượng sản xuất, sự thay thế phương thức sản xuất lại diễn ra, kéo theo sự phát triển không ngừng của xh.

c. Liên hệ thực tiễn Việt Nam

– Thời kỳ trước đổi mới, Đảng ta chủ trương thiết lập một qhsx không thực sự phù hợp với trình độ của llsx, biểu hiện ở chỗ:

+ Về quan hệ sở hữu: chỉ tập trung xây dựng chế độ công hữu, không chủ trương đa dạng hóa các loại hình sở hữu.

+ Về tổ chức quản lý sx: thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp.

+ Về phân phối sản phẩm: mang nặng tính bình quân, cào bằng.

Đây là một qhsx không thực sự phù hợp với trình độ của llsx  ở nước ta vốn còn nhiều hạn chế, có sự phát triển không đồng đều, đan xen nhiều trình độ.

– Trong thời kỳ đổi mới, trên cơ sở xác định rõ trình độ của llsx ở nước ta, Đảng ta đã chủ trương thiết lập một qhsx phù hợp với llsx, đó là:

+ Về quan hệ sở hữu: phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kt nhà nước đóng vai trò chủ đạo.

+ Về tổ chức, quản lý sx: thực hiện việc quản lý, điều tiết nền kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nàh nước theo định hướng XHCN.

Đây là qhsx phù hợp với llsx ở nước ta hiện nay vốn còn nhiều yếu kém có sự phát triển không đồng đều, đan xen  nhiêuf trình độ (thủ công, cơ khí, hiện đại), do vậy nó có tác dụng giải phóng, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của llsx.

2/- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

a) Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

– Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó.

VD. CSHT của CNTB (dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX, do thành phần kt tư nhân giữ vai trò chủ đạo) sản sinh ra KTTT của CNTB (với các chính đảng và nhà nước tư sản giữ vai trò chủ đạo), KTTT này bảo vệ csht của CNTB.

– Kttt lệ thuộc vào csht, do csht quy định, biểu hiện ở chỗ:

+ Giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Nên mọi nhà nước trong lịch sử đều là quyền lực của giai cấp có sức mạnh kinh tế.

+ Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng, cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế.

+ Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Trong đó, điển hình là sự phụ thuộc của các chính đảng và nhà nước: chính đảng của một giai cấp chỉ nắm đc quyền thống trị về mặt chính trị khi giai cấp đó nắm địa vị thống trị trong kinh tế.

– Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật,…Các yếu tố còn lại thay đổi chậm hơn hoặc được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.

b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

– Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng.

+ Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng, bởi vì nó là thiết chế duy nhất có sức mạnh kinh tế (quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế) và bộ máy thống trị để tác động đến cơ sở hạ tầng.

+ Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối, thường là chúng tác động đến cơ sở hạ tầng thông qua nhà nước.

– Sự tác động của kttt đối với csht làm cho csht sinh ra nó được củng cố, duy trì và phát triển, do đó làm cho địa vị của giai cấp trống trị trong kinh tế càng trở nên vững chắc.

VD. Đường lối chính trị của các Đảng, nhà nước tư sản đều tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân (thành phần kinh tế TB tư nhân) phát triển, khi kinh tế TBTN phát triển sẽ tạo điều kiện cho qhsx TBCN được củng cố, tăng cường, qua đó địa vị của giai cấp TS cũng được củng cố.

– Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều:

+ Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển;

+ Nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.

* Ý nghĩa phương pháp luận :

– Trong nhận thức và hành động, phải thấy được vai trò quyết định của cơ sở hạn tầng đối với kiến trúc thượng tầng, của kinh tế đối với chính trị. Những thay đổi trong kinh tế là cơ sở của những thay đổi trong chính trị. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa yếu tố kinh tế, vì nếu tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế sẽ rơi vào chủ nghĩa duy kinh tế – CNDV tầm thường, coi kinh tế là tất cả, chính trị là số không (như phái kinh tế, phái theo đuôi ở Nga cuối thế kỷ XIX).

– Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần phải nhận thức rõ vai trò to lớn của chính trị với kinh tế, song không thể tuyệt đối hóa vai trò của chính trị với kinh tế, nếu tuyệt đối hóa sẽ rơi vào chủ nghĩa duy ý chí.

* Liên hệ với thực tiễn Việt Nam:

– CSHT ở nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần, trong các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

+ KTTTở nước ta hiện nay là hệ thống chính trị được xây dựng dựa trênnền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm Đảng CSVN; Nhà nước CHXHCNVN; Các tổ chức, đoàn thể nhân dân. Trong đó Đảng đóng vai trò lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Để thiết lập một KTTT phù hợp với CSHT, Đảng ta chủ trương: không ngừng đổi mới hệ thống chính trị nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3/- Quá trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội

Quá trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển của các hình thái kt – xh có nghĩa là:

– Con người làm ra lịch sử của mình, họ tạo ra xh, nhưng sự vận động, phát triển của xh không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó chính là những quy luật trong bản thân mỗi hình thái kt – xh, cơ bản nhất là quy luật qhsx phù hợp với trình độ của llsx, kttt phù hợp với csht.

– Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội suy đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế – xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế – xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.

– Quá trình lịch sử tự nhiên trong sự phát triển của các htktxh vừa bao hàm sự phát triển tuàn tự từ thấp đến cao (nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tương lai nhất định thuộc về htktxh cộng sản chủ nghĩa) nếu xét theo lịch sử toàn nhân loại; vừa bao hàm sự bỏ qua một vài hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Thực tế cho thấy, có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao, nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế – xã hội nào đó. Tuy nhiên, sự bỏ qua đó phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.

* Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta

– Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hôi, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã tìm ra quy luật của cách mạng VN: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

– Quá độ ở nước ta là kiểu quá độ gián tiếp: quá độ lên CNXH từ một nước tiền tư bản, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.

– Quá trình đi lên CNXH ở nước ta có điểm xuất phát thấp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ phù hợp. Việc thiết lập các yếu tố cơ bản của hình thái kt – xh mới được Đảng ta xác định:

+ Về lực lượng sx: do trình độ của llsx còn thấp kém, cho nên, để phát triển llsx, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH,  Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

+ Về quan hệ sx: do llsx nước ta còn thấp kém, có nhiều trình độ đan xen, nên Đảng ta chủ trương phát triển nền kt nhiều thành phần trên cơ sở đa dạng hóa các loại hình sở hữu, vận hành cơ chế thị trường, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.

+ Về KTTT: Tương ứng với csht là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Đảng chủ trương:

-> Lấy CN Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân; phát triển giáo dục đào tạo nhằm nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài.

-> Không ngừng đổi mới hệ thống chính trị nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Previous Older Entries